Tại sao lại gọi là “La Hán”? Có tất cả 16 vị hay 18 vị?

Tượng 18 vị La Hán có ý nghĩa gì? Cách sắp xếp | Công ty ...
Share

Về hai tiếng La Hán, sau đây là lời giảng của hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi:
“Vào chùa Việt Nam, chúng ta thường thấy tượng mười tám vị đứng gần nhau, mặt mũi trông sắc sảo dữ tợn. Đó là tượng mười tám vị La Hán, vốn là những tên tướng cướp, về sau gặp được duyên may, được giác ngộ quy y theo Phật và chứng quả A La Hán (…) Chùa Tây Phương (tỉnh Hà Tây) có tượng 18 vị La Hán rất độc đáo. Đây là tích mười tám La Hán theo một huyền thoại của Trung Quốc, bởi vì truyện mười tám tên cướp tu thành La Hán xảy ra ở Trung Hoa. (Ba chỗ in nghiêng là do đến tích này”. Còn ở Ấn Độ, không thấy nói đến tích này (2)

Tượng 18 vị La Hán có ý nghĩa gì? Cách sắp xếp | Công ty ...

Thực ra, các vị La Hán không những không phải là người Trung Hoa mà họ cũng chẳng phải vốn là những tướng cướp; rất khắc khổ. mặt mũi của họ cũng không dữ tợn mà lại nhân hậu và trông rất khắc khổ.

La Hán là dạng tắt của ba tiếng A La Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm tính từ tiếng Sanskrit arhant (Hình thái ở cấp tuyệt đối là arhattama), mà nghĩa gốc là đáng tôn kính, được dùng để chỉ những bậc tu hành đắc đạo dưới hàng Bồ Tát. Tiếng Anh và tiếng Pháp thường phiên thành arhat. Người ta cho rằng La Hán là các vị đệ tử của Phật tuy đã đắc đạo nhưng vẫn sống ở trần gian để tế độ chúng sinh.

Hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi viết rằng chuyện mười tám vị La Hán xuất xứ từ một huyền thoại Trung Hoa “còn ở Ấn Độ, không thấy nói đến tích này”. Thực ra các vị La Hán đều mang tên bằng tiếng Sanskrit là một phương ngữ cổ đến mấy nghìn năm của Ấn Độ. Tên của các vị đã được chép trong Pháp trụ ký của Nan Đề Mật Đa La như sau: 1. Tân Độ La Bạt La Đoạ, 2. Già Nặc Già Phạt Sa, 3. Già Nặc Bạt Ly Đoạ Ám, 4. Tô Tần Đà, 5. Nặc Cự Na, 6. Bạt Đà La, 7. Già Lý Già, 8. Phạt Đồ La Phất Đa La, 9. Tuất Bát Già, 10. Bán Thác Già, 11. La Hồ La, 12. Na Già Tê, 13. Nhân Kiệt Đà, 14. Phạt Na Ba Tư, 15. A Thị Đa, 16. Chú Đồ Bán Thác Già. Danh sách trên đây là tên của các vị La Hán mà người Trung Hoa đã phiên âm từ tiếng Sanskrit. Tất cả là 16 vị.

Sở dĩ có ý kiến cho rằng tất cả có 18 vị La Hán là vì vào thời Tống, người thích vẽ chuyện đã thêm vào hai tên Khánh Hữu và Tân Đầu Lô mà không biết rằng Tần Đầu Lô chỉ là một dạng phiên âm hơi khác của Tân Độ La (Bạt La Đoạ) còn Khánh Hữu thì chỉ là dịch nghĩa của Nan Đệ Mật Đa La, Khánh = mừng là dịch nghĩa của Nandi (Nan Đề = người được vui mừng) còn Hữu = bạn là dịch nghĩa của Mitra (Mật Đa La = bạn). Mà Nandi-mitra (Nan Đề Mật Đa La) tức Khánh Hữu chỉ là tác giả của Pháp trụ ký đã nói ở trên chứ không phải là một vị La Hán trong danh sách đang xét. Vậy tất cả chỉ có 16 vị mà thôi.
1. Từ năm 2008 đã nhập vào thành phố Hà Nội. 2. Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 432.

  • Tháng Năm 13, 2023