Tục “rửa chân cô dâu” trong đám cưới của người Thái
- Dẫn nhập
Trong sách Phong tục tập quán các dân tộc thiểu số Nghệ An, Nhà xuất bản Nghệ An, Vinh, năm 1997, khi nói về tục “rửa chân cô dâu” trong đám cưới của người Thái, chúng tôi đã viết: “[Khi đoàn rước dâu về] đến nhà [trai],… Bà mối múc nước trong cái sanh đồng rửa chân cho 2 người [dâu rể]…. Trong sanh phải có nén bạc hay hào bạc”. (Sách đã dẫn, trang 40). Mười sáu năm sau, khi xuất bản cuốn Đám cưới truyền thống của người Thái Nghệ An, Nhà xuất bản Thời đại, Hà Nội, năm 2013, đề cập đến tục đó, chúng tôi lại viết: “[Khi] chàng rể và cô dâu đến chân cầu thang; mẹ chàng rể đã chuẩn bị sẵn một chậu nước, có bỏ vào vài đồng tiền xu, xối vào chân 2 người trước lúc lên nhà, vừa là rửa chân cho sạch, vừa để rửa đi quá khứ, sang cái mới từ đây” (Sđd, tr. 136). Đọc lại những dòng này, về chi tiết có thể phải “chính xác hóa” thêm, nhưng về cơ bản vẫn đúng theo tinh thần phong tục của người Thái. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn tiếp tục tìm hiểu về ý nghĩa của phong tục này. Phải chăng nước ở đây chỉ có chức năng “rửa chân cho sạch, vừa để rửa đi quá khứ, chuyển sang cái mới”, hay còn có ý nghĩa/chức năng gì sâu xa hơn? Đồng bạc, đồng xu ở đây có ý nghĩa/chức năng gì?
Gần đây, sau khi tham khảo thêm tài liệu, chúng tôi đã có thêm những nhận thức mới về vấn đề này, xin được “nói thêm” ở trong bài viết này.
- “Nước” có công năng phồn thực
Trong thần thoại, truyền thuyết về nữ thần sáng thế Mễ Lục Giáp “Đẻ con” của tộc người Choang (Trung Quốc), có 2 truyện. Truyện thứ nhất như sau: “Có một hôm, Bố Lạc Đà cùng với Đồ Ngạch ra biển bơi lội. Bố Lạc Đà trông xa xa thấy nàng Mễ Lục Giáp đang đứng ngây người trên đỉnh núi nọ… Thế là chàng liền ngậm một ngụm nước phun về phía Mễ Lục Giáp. Nước phun thành một tia thẳng như kẻ chỉ, bắn đúng vào lỗ rốn của nàng. Mễ Lục Giáp trở về nhà, cái bụng cứ mỗi ngày một to dần lên, và chín tháng sau nàng sinh ra một ổ con, cả thảy là 12 đứa. (Sau này khi 12 đứa trẻ vừa nam vừa nữ khôn lớn, nàng Mễ Lục Giáp đã bảo chúng gọi Bố Lạc Đà là cha). Còn về phía Bố Lạc Đà, khi tìm thấy nàng Mễ Lục Giáp đã hỏi nàng rằng: “Những đứa trẻ đó sao lại gọi ta là cha?”. Mễ Lục Giáp trả lời ngay: “Chàng quên rồi ư? Hôm ấy khi chàng ở dưới biển phun nước lên người tôi, thì chính tia nước ấy đã làm cho tôi mang thai, do đó đã sinh ra lũ trẻ đấy! Nước do chàng phun, cho nên lũ trẻ phải gọi chàng là cha”(1). Truyện thứ hai: “Sau khi trời đất hình thành, trên mặt đất chỉ có hai người là Bố Lạc Đà và Mễ Lục Giáp. Thế là Bố Lạc Đà bèn tìm nàng Mễ Lục Giáp để bàn chuyện tạo ra loài người. Mễ Lục Giáp nghe Bố Lạc Đà nói vậy thì bất giác đỏ ửng mặt lên, rồi cười mà chẳng nói gì. Chàng Bố Lạc Đà thấy Mễ Lục Giáp im lặng không nói, liền chạy thẳng một mạch tới biển Đông và rất lâu vẫn không trở lại. Nàng Mễ Lục Giáp khi ấy lại cảm thấy cô đơn vắng lặng, ngày đêm tưởng nhớ Bố Lạc Đà và nàng thường ngày ngày lên đỉnh núi để ngóng chờ chàng quay về. Còn Bố Lạc Đà xa cách Mễ Lục Giáp đã lâu cũng hết sức nhớ nhung Mễ Lục Giáp. Khi từ mé biển xa xa nhìn về, thấy Mễ Lục Giáp đang đứng trên đỉnh núi ngóng trông, Bố Lạc Đà không ngăn nổi xúc cảm trào dâng, chàng liền ngậm một ngụm nước biển, rồi lấy sức phun thẳng về phía Mễ Lục Giáp. Nào ngờ, ngụm nước đó phút chốc đã biến thành chiếc cầu vồng bảy màu rực rỡ, vượt qua muôn dặm, bắc ngang bầu trời, một đầu nối từ miệng Bố Lạc Đà, còn đầu kia thì nối liền vào mình nàng Mễ Lục Giáp. Sau đó chẳng bao lâu, nàng Mễ Lục Giáp cảm thấy bụng mang thai. Bấy giờ Bố Lạc Đà cũng đã trở về. Chín mươi ngày sau, Mễ Lục Giáp nôn ra một đống “bùn vàng”. Hai người bèn lấy thứ bùn vàng đó nặn thành từng con người bằng đất, rồi lấy cỏ rối, lá cây, cỏ khô bọc lại và đem bỏ vào trong chum vại, rồi hằng ngày lại lấy nước tưới thêm vào đó. Qua 90 ngày sau, những con người bằng bùn đất đó bắt đầu ngọ ngậy. Mễ Lục Giáp lấy thân mình ủ ấm cho chúng, rồi dùng lưỡi liếm liếm vào từng người một, ngày đêm không ngừng. Lại qua 90 ngày nữa, đám người bùn đất đó hoàn toàn biến thành người thật và bò ra mặt đất, ngửng nhìn trời”(2). Rõ ràng, ở đây “nước” có công năng phồn thực.
Thời cũ, cặp vợ chồng người Choang nào mà sau cưới lâu có con thì phải tìm đến thầy tướng số làm lễ hóa giải. Trong lễ này phải có một con vịt trắng, một xâu thịt lợn, một quả trứng gà, và một bát nước trong. Sư công thắp hương, niệm chú, mời thần linh, rồi giết con vịt trắng lấy máu hòa vào bát nước, đưa cho hai vợ chồng uống. Họ làm như thế và tin rằng có thể sinh con đẻ cái(3). “Nước” ở đây cũng có công năng phồn thực như vậy.
Phụ nữ người Choang khó đẻ cũng phải nhờ đến nước. Ở động Kim Long, huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây, người Choang cho rằng khó đẻ là do ma quỷ làm hại, phải mời “mật công” (phù thủy, cũng gọi là “vu công”) đến làm phép giải ma. Khi làm phép, mật công tay cầm một chén nước trong, miệng lẩm nhẩm đọc câu thần chú: “Con trai, con gái hãy sớm rời bụng mẹ, kíp kíp theo sắc lệnh!”. Cứ thế cho đến khi chén nước đã biến thành “nước thiêng”. Sau khi người phụ nữ này uống thứ nước đó, sẽ cảm thấy trong người dễ chịu và sinh con dễ dàng (!)(4). “Nước” thật màu nhiệm! Nó giúp người sinh con đẻ cái.
Trong sách Lỗ Ban thư của người Choang có chép về “bùa hộ sinh” với thần chú rằng: “Một hóa nước chín rồng, hai hóa nước hộ sinh Vương Mẫu, ba hóa nước trong bình Quan Âm, bốn hóa nước Hoa Đà Tây Thiên”. Cách làm là tay cầm chén nước hộ sinh, miệng đọc thần chú hộ sinh, sau đó cho người phụ nữ khó đẻ nhai lá bùa hộ sinh rồi dùng chén nước hộ sinh uống(5). “Nước” ở đây cũng được xem là có phép màu giúp người sinh nở.
“Nước” còn gắn với người Choang trong phong tục cưới.
Tục rửa chân cho cô dâu trong đám cưới của người Thái ở Nghệ An
- “Nước” trong phong tục cưới
3.1. Lấy “nước xuân tình”
Ở vùng nông thôn phái tây bắc khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc), thanh niên trai gái chưa kết hôn đều có tục ra khỏi nhà để đón xuân ngay từ ngày mồng một đầu năm. Hôm đó, con trai phải tìm mọi cách để làm cho người ta mắng chửi mình; còn con gái thì tranh nhau ra sông gánh “nước xuân tình”, nhặt đá cuội bên sông, đồng thời xem ai gánh được nước về nhà trước tiên thì đó sẽ là người may mắn nhất, vì năm đó cô ta có thể tìm được người bạn tình vừa ý nhất. Ở vùng này, vào ngày mồng một năm mới cũng được gọi là “Tết xuân tình”. Tục lấy “nước xuân tình” đầu năm mang ý nghĩa phồn thực(6).
3.2. Lấy nước sau lễ cưới
Vẫn là ở người Choang, sau lễ cưới ba ngày thì cô dâu phải “đi gánh nước về cho nhà chồng”. Thứ nước này không đồng đẳng với nước trong sinh hoạt thường ngày. Nước này mang nội hàm văn hóa đặc thù về phồn thực(7).
3.3. Tái giá phải mang theo ống nước
Người Choang ở huyện Liễu Giang, đàn bà góa khi tái giá có tục phải mang theo một ống nước. Tục này hẳn cũng không ngoài ý nghĩa cầu phồn thực(8).
3.4. Tục “dầm sương”
Người Choang ở vùng Bách Trượng, huyện Tượng Chân thuộc Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, lại thịnh hành một tập tục hôn lễ cổ xưa đó alf tục “dầm sương”. Khi người phụ nữ đã ly hôn hoặc góa bụa mà tái giá thì trước ngày về nhà chồng phải ra ngoài thôn nằm phơi sương một đêm, để cho sương thấm đẫm người. Có thể hiểu nghi thức “dầm sương” này là nhằm tẩy rửa những “xui xẻo” trên thân thể người phụ nữ tái giá, để tránh mang theo những điều chẳng lành về nhà chồng; nhưng đúng hơn, nghi thức “dầm sương” chẳng qua cũng vẫn là ý nguyện cầu phồn thực, mượn năng lực phồn thực của nước để giúp tăng trưởng năng lực sinh dục của chính người đàn bà tái giá. Cũng qua tục “dầm sương” này của người Choang mà người ta có thể nhận ra nguồn gốc của chữ “sương” (người đàn bà góa) trong tiếng Hán. Trong tiếng Hán, chữ “sương” (người đàn bà góa) gồm chữ “sương” (sương móc), với chữ “nữ” (đàn bà). Vậy, phải chăng có mối liên hệ qua lại giữa “sương” (bà góa) với “sương” (sương móc) và “nước – phồn thực” như một vòng tuần hoàn?(9)
3.5. Cúng thần nước
Ngay ngày đầu tiên sau khi bước vào cửa nhà chồng, (cô dâu người Choang) phải làm ngay cái việc đầu tiên là “cúng lễ thần nước”. Thứ nước do cô dâu gánh về lại do bà mẹ chồng đem chia cho người thân, đó chính là thứ “nước thiêng” tượng trưng cho sự sung mãn năng lực phồn thực – thứ nước đó chẳng những giúp cô dâu thực hiện được nguyện vọng sinh dục, mà còn đem lại điều may mắn cho mọi người(10). Như vậy, ta được biết là cô dâu phải làm lễ “cúng thần nước” tại nhà, một nghi lễ hết sức quan trọng trong đám cưới của người Choang. Không những thế, cô dâu người Choang ở Khâm Châu còn phải “cúng thần nước” tại suối: “cô dâu trong ngày đầu tiên sau khi về nhà chồng phải theo một người đàn bà lớn tuổi bên nhà chồng dẫn tới nơi nguồn nước mà họ hàng nhà chồng vẫn dùng; ở đây cô dâu phải thắp hương cầu khấn thần nước, đồng thời vứt những đồng tiền và vãi gạo xuống nước. Sau đó người đàn bà dẫn đường lấy tay vục nước rồi xoa nhẹ lên đầu, lên trán cô dâu. Cuối cùng, cô dâu lại phải một lần nữa cúi đầu lạy tạ nguồn nước. Điều đáng chú ý ở đây là, người đàn bà dẫn đường, ngoài yêu cầu lớn tuổi còn phải là người đẻ nhiều con, có nghĩa là bản thân người ấy cũng là biểu tượng của năng lực sinh dục mạnh. Căn cứ vào nguyên lý của ma thuật tiếp xúc, chúng ta nhận thấy những nghi thức hôn lễ vừa kể như việc cầu khấn nước, xoa nước vào trán cô dâu, rõ ràng đều quan hệ tới tập tục sùng bái phồn thực của người Choang đối với nước(11). Chúng tôi lưu ý đến chi tiết cô dâu cầu khấn và “vứt đồng tiền” xuống nước trong lễ “cúng thần nước” ở đây, rõ ràng là xin thần nước ban khả năng sinh dục, phồn thực, con cái, để nối dõi nhà chồng, tránh phạm vào điều “bất hiếu” theo quan niệm của nhà Nho: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (Tội bất hiếu có ba điều, trong đó không có con nối dõi là điều lớn nhất), giữ được hạnh phúc cho mình, cho gia đình; và đó cũng là lời đáp cho câu hỏi trong nghi lễ “rửa chân cô dâu” trong đám cưới của người Thái, vì sao người ta lại bỏ đồng bạc vào trong sanh/thau nước!
- Kết luận
Trở lên, sở dĩ chúng tôi dẫn thần thoại – truyền thuyết, phong tục cưới của người Choang để giải thích một nghi lễ trong đám cưới của người Thái: “rửa chân cô dâu”, và “trong cái sanh/thau nước có đồng bạc” – là vì xa xưa trong thời cổ đại, người Choang và người Thái là cùng một nguồn gốc. Đặng Nghiêm Vạn trong Dân tộc Văn hóa Tôn giáo, viết: “Hiện nay các nhóm dân tộc thuộc ngôn ngữ Tày – Thái (hay Cháng (Choang) – Đồng hay Thái) thuộc ngữ hệ Nam Á (nay xác định là Thái – Kadai), có khoảng 40 triệu người cư trú ở nhiều nước thuộc chế độ chính trị và văn hóa khác nhau như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), nước Lào, nước Thái Lan, Liên bang Myanma và vùng Assam miền Đông Ấn Độ. Xưa, các nhóm này có chung nguồn gốc (chúng tôi nhấn mạnh- QVM), cư trú ở một khu vực thống nhất, sau trong quá trình lịch sử dần phân hóa”(12).
Như vậy, tục “rửa chân cô dâu” trong đám cưới của người Thái; và “trong sanh/thau nước có đồng bạc”, ngoài những ý nghĩa chúng tôi đã viết trước đây (trong các sách Phong tục tập quán các dân tộc thiểu số Nghệ An và Đám cưới truyền thống của người Thái – Nghệ An, đã dẫn ở trên), “nước” còn mang ý nghĩa truyền sức mạnh “phồn thực” cho cô dâu; và “đồng bạc” là để “xin thần nước (khả năng phồn thực) phù hộ”.