Nguồn gốc tên gọi An nam và Annamite (An nam mít)

Di sản Hội An qua ảnh xưa - Phố cổ Hội An - Di sản văn hóa thế giới
Share
Đọc lịch sử, chúng ta thường thấy xuất hiện hai từ An Nam dùng để chỉ tên gọi nước ta. Ngay cả bộ sử xưa nhất do một cá nhân người Việt soạn vào năm 1335 cũng có nhan đề là An Nam chí lược do Lê Tắc viết.
Ý nghĩa của tên gọi An Nam biểu thị cái nhìn trịch thượng của kẻ chinh phạt (An Nam – 安南, hàm ý “bình định, dẹp yên, trấn áp phương Nam“). Vậy xuất xứ của tên gọi An Nam bắt nguồn từ đâu?
Di sản Hội An qua ảnh xưa - Phố cổ Hội An - Di sản văn hóa thế giới

Nguyên là vào năm 248, cả hai châu là Cửu Chân và Giao Chỉ đều nổi dậy chống lại sự đô hộ của nhà Ngô. Thanh thế của các cuộc khởi nghĩa lớn mạnh đến nỗi ngay cả các nhà sử học của  Ngô phải thừa nhận là “toàn thể Châu Giao chấn động” (theo Ngô chí, quyển 8). Trong số đó, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Bà Triệu có thanh thế vang dội hơn cả.

Đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ ở Châu Giao, Tôn Quyền – quân chủ của nhà Ngô, phải cử viên danh tướng Lục Dận(1) làm thứ sử Giao Châu với chức “An Nam hiệu úy” đem khoảng 8.000 quân sang Giao Châu đàn áp nhân dân khởi nghĩa. Như vậy là cái tên An Nam đáng ghét manh nha xuất hiện trong sử sách chính là lúc này, năm 248.

Đến năm 679, nhà Đường cho đổi “Giao Châu tổng quản phủ” (lập năm 622) thành “An Nam đô hộ phủ“, gồm 13 châu với 59 huyện (tương ứng một phần Choang Quảng Tây, Miền Bắc và miền Trung Việt Nam – từ Hà Tĩnh hiện nay trở ra)(2). Địa danh An Nam “chính thức” có từ đó. Từ lúc này trở về sau, hai chữ An Nam dùng để chỉ chủ yếu là vùng nước ta. Trung Quốc hay gọi ta là An Nam và phong cho vua nước ta là An Nam Quốc Vương.Thời Pháp thuộc, có lẽ do ảnh hưởng của Trung Quốc, người Pháp mặc nhiên gọi nước ta là An Nam và gọi dân ta là Annamite(1), mặc dù  nước ta từ đời Đường, trải qua nhiều thế kỷ chống lại “sự trấn áp phương Nam” đã đổi tên nước nhiều lần và ngay cả thời điểm đó, nước ta có tên là Đại Nam.


Tham khảo và trích dẫn

• Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh – Lịch sử Việt Nam tập 1 – NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội 1983


Chú thích

(1) Lục Dận (陸胤) chính là cháu của Đại đô đốc Lục Tốn (陸遜) – một tướng lĩnh quân sự nổi tiếng của Đông Ngô thời Tam quốc.
(2) Cái tên An Nam đô hộ phủ tồn tại đến năm 757 thì bị đổi thành Trấn Nam đô hộ phủ. 9 năm sau đó lại trở về tên cũ. Tới năm 866, An Nam đô hộ phủ được phong Tĩnh Hải Quân, ngang hàng với các vùng đất trong nội địa nhà Đường. An Nam đô hộ phủ cũng là đô hộ phủ tồn tại lâu nhất trong 6 đô hộ phủ do nhà Đường lập ra (6 đô hộ phủ gồm Bắc Đình đô hộ phủ – giữ Tân Cương, Thiền Vu đô hộ phủ – giữ Nội Mông Cổ, An Tây đô hộ phủ – giữ Tây Vực , An Bắc đô hộ phủ – giữ Ngoại Mông Cổ , An Đông đô hộ phủ – giữ Cao Câu Ly và An Nam đô hộ phủ – giữ Giao Chỉ).
(3) Từ Annamite với biến thể Việt hóa là Annam mít có hàm ý miệt thị của những người Việt được “khai sáng văn minh” bởi “mẫu quốc Pháp” với những người Việt “chưa được khai sáng”. Nhiều người Việt dùng từ này với đồng bào mình có lẽ hay tự coi mình về mặt văn hóa, gần gũi với những kẻ thống trị hơn với các đồng bào bị trị của mình.
  • Tháng Tám 11, 2022